Tòa án có được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm hay không?

Cho tôi hỏi Tòa án có được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm hay không? Cả chứng cũ và chứng cứ mới được bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa hình sự phúc thẩm đúng không? Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được pháp luật quy định như thế nào? Câu hỏi của anh Minh (Long An).

Tòa án có được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm hay không?

Theo khoản 1 Điều 353 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về việc bổ sung, xem xét chứng cứ, tài liệu, đồ vật như sau:

Bổ sung, xem xét chứng cứ, tài liệu, đồ vật
1. Trước khi xét xử hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự cũng có quyền bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật.
...

Theo đó, trước khi xét xử hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa án được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới.

Ngoài ra, việc bổ sung chứng cứ mới còn có thể được thực hiện bởi Viện kiểm sát hoặc người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.

Tòa án có được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm hay không?

Bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm (Hình từ Internet)

Cả chứng cũ và chứng cứ mới được bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa hình sự phúc thẩm đúng không?

Theo khoản 2 Điều 353 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về việc bổ sung, xem xét chứng cứ, tài liệu, đồ vật như sau:

Bổ sung, xem xét chứng cứ, tài liệu, đồ vật
...
2. Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa phúc thẩm. Bản án phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.

Theo đó, tất cả chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa phúc thẩm. Bản án phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.

Việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được pháp luật quy định như thế nào?

Theo Điều 88 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định về công tác thu thập chứng cứ như sau:

Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.
3. Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
4. Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này.
5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.

Theo đó, việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự được pháp luật quy định như sau:

- Để thu thập chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.

- Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa.

- Những người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.

- Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Thu thập chứng cứ
Căn cứ pháp lý
MỚI NHẤT
Thư viện nhà đất
Đối chất có bắt buộc tiến hành để thu thập chứng cứ không? Nguyên đơn không gửi tài liệu, chứng cứ cho bị đơn thì phải làm sao?
Pháp luật
Mẫu quyết định ủy thác thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự mới nhất là mẫu nào? Hướng dẫn viết mẫu?
Pháp luật
Tòa án sẽ không còn nhiệm vụ thu thập chứng cứ theo đề xuất tại Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)?
Pháp luật
Tòa án có được quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới tại phiên tòa hình sự phúc thẩm hay không?
Pháp luật
Tòa án có quyền thu thập chứng cứ bổ sung trong giai đoạn xét xử phúc thẩm của vụ án dân sự không?
Pháp luật
Trong giải quyết các tranh chấp dân sự thì bản sao tài liệu đọc có được xem là chứng cứ hay không?
Pháp luật
Trong vụ án dân sự thì đương sự có được yêu cầu Viện kiểm sát phải thu thập chứng cứ thay mình không?
Pháp luật
Các nguồn xác minh, thu thập chứng cứ được quy định như thế nào? Mức phạt khi cản trở thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự?
Pháp luật
Đương sự trong vụ án dân sự khi không thể thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Thu thập chứng cứ
4,208 lượt xem
TÌM KIẾM LIÊN QUAN
Thu thập chứng cứ

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Thu thập chứng cứ

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào