Sau khi chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì hợp đồng lao động của công chứng viên có bị thay đổi hay không?
- Việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng phải đảm bảo những nguyên tắc nào?
- Sau khi chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì hợp đồng lao động của công chứng viên có bị thay đổi hay không?
- Công chứng viên của Phòng công chứng được chuyển đổi được giải quyết chế độ chính sách như thế nào?
Việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng phải đảm bảo những nguyên tắc nào?
Căn cứ Điều 4 Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định về nguyên tắc chuyển đổi Phòng công chứng như sau:
Nguyên tắc chuyển đổi Phòng công chứng
1. Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng đó.
2. Bảo đảm chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động sau khi Phòng công chứng chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật về viên chức và pháp luật về lao động.
3. Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải ký hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng đó, trừ trường hợp những người này không có nhu cầu tiếp tục làm việc tại Văn phòng công chứng. Nội dung, thời hạn, điều kiện hợp đồng được thực hiện theo quy định của Nghị định này và các quy định pháp luật khác có liên quan.
4. Bảo đảm tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước đang do Phòng công chứng quản lý, sử dụng được xử lý theo đúng quy định của pháp luật, không bị thất thoát trong quá trình chuyển đổi.
Như vậy, khi thực hiện chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định pháp luật nêu trên.
Chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng (Hình từ Internet)
Sau khi chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì hợp đồng lao động của công chứng viên có bị thay đổi hay không?
Căn cứ Điều 10 Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định về việc ra quyết định chuyển đổi Phòng công chứng như sau:
Quyết định chuyển đổi Phòng công chứng
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra Quyết định chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng theo đề nghị của Sở Tư pháp.
2. Văn phòng công chứng thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động theo quy định của Luật Công chứng. Phòng công chứng được chuyển đổi tiếp tục hoạt động cho đến ngày Văn phòng công chứng được cấp giấy đăng ký hoạt động.
3. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy đăng ký hoạt động, Văn phòng công chứng phải ký hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi.
Hợp đồng lao động giữa Văn phòng công chứng với công chứng viên hoặc viên chức của Phòng công chứng được chuyển đổi là hợp đồng không xác định thời hạn, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Hợp đồng lao động giữa Văn phòng công chứng với người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi là loại hợp đồng mà người lao động đã giao kết trước đó với Phòng công chứng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Theo đó, hợp đồng lao động giữa Văn phòng công chứng với người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi là loại hợp đồng mà người lao động đã giao kết trước đó với Phòng công chứng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy, khi thực hiện chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì sẽ không ảnh hưởng đến hợp đồng lao động của những công chứng viên đã ký kết trước đó. Hợp đồng lao động giữa công chứng viên với Văn phòng công chứng là hợp đồng không xác định thời hạn.
Công chứng viên của Phòng công chứng được chuyển đổi được giải quyết chế độ chính sách như thế nào?
Căn cứ Điều 11 Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định về việc giải quyết chế độ chính sách với công chứng viên của Phòng công chứng được chuyển đổi như sau:
Chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi
1. Việc giải quyết chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi thực hiện theo quy định của pháp luật đối với đơn vị sự nghiệp chấm dứt hoạt động.
2. Trường hợp công chứng viên của Phòng công chứng được chuyển đổi chuyển sang hành nghề tại Văn phòng công chứng thì chấm dứt hợp đồng làm việc với Phòng công chứng và được giải quyết chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Công chứng viên, viên chức khác đủ điều kiện nghỉ hưu hoặc thôi việc thì được giải quyết chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
3. Trường hợp người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi chuyển sang làm việc tại Văn phòng công chứng thì chấm dứt hợp đồng lao động với Phòng công chứng và được giải quyết chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu hoặc thôi việc thì được giải quyết chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
4. Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Tài chính, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng được chuyển đổi quy định tại Khoản 1,2 và Khoản 3 Điều này.
Theo đó, khi chuyển đổi Phòng công chứng thì công chứng viên sẽ được giải quyết chết độ chính sách heo quy định của pháp luật đối với đơn vị sự nghiệp chấm dứt hoạt động.
Việc xem xét, quyết định chế độ, chính sách đối với công chứng viên tại Phòng công chứng được chuyển đổi sẽ do Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Tài chính, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Biên tập viên hạng 1 lĩnh vực xuất bản chỉ đạo việc phối hợp giữa biên tập viên các bộ phận nào để bản thảo đi in đạt yêu cầu chất lượng xuất bản phẩm?
- Quán net được mở đến mấy giờ? Quán net không được hoạt động từ 22 giờ đến 8 giờ sáng hôm sau đúng không?
- Thành viên trong nhóm người sử dụng đất muốn chuyển nhượng đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì xử lý như thế nào?
- Kinh phí khuyến công quốc gia đảm bảo chi cho những hoạt động khuyến công do cơ quan nào thực hiện?
- Người nộp thuế có được yêu cầu cơ quan quản lý thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình không?