TCVN 6860:2001 về chất lượng đất? Các phương pháp khác để xác định thể tích đất được đào là gì?
Phạm vi áp dụng TCVN 6860:2001 về chất lượng đất ra sao?
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6860:2001 về chất lượng đất hoàn toàn tương đương với ISO 11272 : 1998.
TCVN 6860:2001 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn TCVN/TC190 Chất lượng đất biên soạn, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đề nghị, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường ban hành.
Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 6860:2001 mô tả ba phương pháp xác định khối lượng theo thể tích nguyên khối khô của đất được tính từ khối lượng và thể tích của mẫu đất. Các phương pháp gồm làm khô, cân mẫu đất với thể tích đã biết (phương pháp lõi khoan) hoặc tiến hành xác định (phương pháp đào).
TCVN 6860:2001 về chất lượng đất? Các phương pháp khác để xác định thể tích đất được đào là gì? (Hình từ Internet)
Lấy mẫu và sấy khô trong phương pháp lõi khoan để xác định chất lượng đất ra sao?
Căn cứ theo Mục 4 Tiêu chuẩn TCVN 6860:2001, phương pháp lõi khoan được áp dụng cho những loại đất chứa ít đá và không chứa đá. Các thỏi mẫu đã biết thể tích được lấy bằng một dụng cụ lấy mẫu bằng kim loại. Mẫu được sấy khô trong tủ sấy, cân và tính khối lượng theo thể tích nguyên khối khô.
Theo đó, việc lấy mẫu và sấy khô được thực hiện theo khoản 4.1.3 tiểu mục 4.1 Mục 4 Tiêu chuẩn TCVN 6860:2001 như sau:
Tiến hành thử
4.1 Phương pháp lõi khoan
...
4.1.3 Lấy mẫu và sấy khô
ấn hoặc đóng ống lấy mẫu (4.1.2.1) đã biết thể tích vào bề mặt đất, theo chiều thẳng đứng hoặc bề mặt ngang của đất cho đến khi ống chứa đầy mẫu, sao cho không được làm chệch hướng và đất bị nén chặt. Lấy ống chứa mẫu ra một cách cẩn thận và lượng chứa phải giữ ở cấu trúc tự nhiên của đất, dùng dao hoặc thìa sắc gọt sửa đất trùm ra hai đầu ống. Thể tích của mẫu đất bằng thể tích của ống. Lấy ít nhất sáu lõi mẫu từ mỗi tầng. Đặt ống chứa mẫu vào tủ sấy (4.1.2.2) ở 105oC cho đến khi đạt được khối lượng không đổi (tối thiểu 48 giờ). Lấy mẫu ra khỏi tủ sấy và làm nguội trong bình hút ẩm (4.1.2.3). Cân mẫu bằng cân (4.1.2.4) ngay sau khi lấy ra khỏi bình hút ẩm (m1). Khối lượng mẫu đối chứng đạt được khi sự khác biệt trong những lần cân kế tiếp của mẫu đã làm nguội, trong khoảng 4 giờ , không vượt quá 0,01% khối lượng thực của mẫu đối chứng.
Chú thích 1 - Các loại đất trương/co (đặc biệt là sét, bùn và than bùn) thay đổi khối lượng theo thể tích nguyên khối khô của chúng với sự thay đổi hàm lượng nước. Những đất như thế được lấy trước hết ở trạng thái ẩm (nghĩa là độ ẩm đồng ruộng); và chúng sẽ được lấy mẫu trong trạng thái ướt (nghĩa là bão hoà nước) và trong trạng thái khô (nghĩa là tại điểm cây héo). Nếu đất khô cứng quá khi lấy mẫu, thì khối lượng theo thể tích nguyên khối khô của các đoàn lạp tự nhiên phải được xác định theo 4.3, và tổng thể tích đất theo 4.2.3.
Chú thích 2 - Nếu khối lượng theo thể tích nguyên khối khô (và hàm lượng nước) là các thông số cần quan tâm, thì không cần giữ mẫu trong các ống khi đưa chúng trở lại phòng thí nghiệm: sau khi mẫu được lấy và gọt sửa, đất có thể lấy ra khỏi ống, không để mất, bảo quản trong hộp kim loại hoặc trong túi nhựa chịu nhiệt khi vận chuyển.
Chú thích 3 - Thông thường phối hợp phép đo hàm lượng nước với phép đo khối lượng theo thể tích nguyên khối khô, trong trường hợp đó khi vận chuyển mẫu không được để làm mất nước do bay hơi, và bắt đầu làm những thao tác trong phòng thí nghiệm bằng việc cân mẫu tươi.
Như vậy, việc lấy mẫu và sấy khô trong phương pháp lõi khoan được thực hiện theo nội dung nêu trên.
Các phương pháp xác định thể tích đất được đào khác là gì?
Các phương pháp khác để xác định thể tích đất được đào được nêu tại Phụ lục A ban hành kèm theo Tiêu chuẩn TCVN 6860:2001.
Cụ thể như sau:
Khái quát
Có thể chọn những cách khác để đo thể tích đất, tiếp theo cách tiến hành sơ bộ của phương pháp đào.
Có ba phương pháp khác nhau được mô tả trong phụ lục này: thay thế bằng khối cầu nhựa, phương pháp màng và phương pháp trực tiếp.
Đo thể tích bằng cách sử dụng khối cầu nhựa
Thể tích của đất bị lấy đi được lấp đầy bằng các quả cầu nhựa đúc đường kính 2 cm và có thể tích đóng gói 7,315 cm3 cho mỗi quả cầu được đưa vào trong hố cho đến khi có mức ngang bằng với bề mặt đất, và tính số lượng các quả cầu. Thể tích đất V, tính bằng centimét khối, được tính theo công thức:
V = 7,315 x số quả cầu
Đo thể tích bằng phương pháp màng
Thể tích được xác định bằng cách cho bóng bay bằng cao su vào trong hố và đổ nước vào bóng bằng dụng cụ chia độ tới đáy của một cái khuôn.
Đo trực tiếp thể tích
Nếu việc đào được làm cẩn thận có thể đo một cách đơn giản các kích thước của nó với một thước dây đo và tính thể tích. Lưới đo (đĩa kim loại phẳng có diện tích bề mặt 50 cm2 với 30 đến 40 lỗ cách nhau một cách đều đặn hình thành một mạng mà qua đó đo được bằng cách lồng thước dây vào) cho phép xác định thể tích của việc đào không đều.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Ngành quản lý tòa nhà trình độ cao đẳng là ngành gì? Ngành quản lý tòa nhà hệ cao đẳng có nhiều cơ hội việc làm sau khi tốt nghiệp không?
- Nhà thầu phải gửi đơn kiến nghị kết quả lựa chọn nhà thầu thông qua bộ phận thường trực đến người có thẩm quyền trong thời hạn bao lâu?
- Quy trình xử lý văn bản hồ sơ công việc trên môi trường điện tử của cơ quan nhà nước được thiết kế như thế nào?
- Hệ thống dữ liệu thiết bị giám sát hành trình và thiết bị ghi nhận hình ảnh người lái xe từ 01/01/2025 thế nào?
- Cá nhân đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng có được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm khi Nhà nước thu hồi đất?