Giá trị thặng dư là gì? Tổng hợp ví dụ? Nguồn gốc của giá trị thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư là gì? Nguồn gốc của giá trị thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư là một khái niệm trong kinh tế học, đặc biệt là trong học thuyết của Karl Marx. Nó đề cập đến phần giá trị vượt quá giá trị sức lao động mà người lao động tạo ra, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Nguồn gốc của giá trị thặng dư xuất phát từ lao động sống của người lao động. Khi người lao động làm việc, họ tạo ra một giá trị mới vượt quá giá trị của sức lao động mà họ được trả công. Phần giá trị dôi ra này được gọi là giá trị thặng dư và bị nhà tư bản chiếm đoạt
Khi người lao động làm việc, họ tạo ra một lượng giá trị nhất định. Tuy nhiên, họ chỉ được trả một phần giá trị đó dưới dạng tiền lương, phần còn lại (giá trị thặng dư) bị nhà tư bản chiếm giữ.
Ví dụ: Một công nhân làm việc trong một nhà máy sản xuất áo sơ mi. Mỗi ngày, anh ta làm việc 8 tiếng và sản xuất được 10 chiếc áo. Giá trị của 10 chiếc áo này là 100 đô la. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được 50 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (50 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Giá trị thặng dư là nguồn thu nhập chính của các nhà tư bản và là cơ sở để họ tiếp tục đầu tư và phát triển sản xuất.
Giá trị thặng dư là gì? Tổng hợp ví dụ? Nguồn gốc của giá trị thặng dư là gì? (Hình từ Internet)
Một số ví dụ giá trị thặng dư?
Dưới đây là một số ví dụ giá trị thặng dư:
- Sản xuất áo sơ mi: Một công nhân làm việc trong một nhà máy sản xuất áo sơ mi. Mỗi ngày, anh ta làm việc 8 tiếng và sản xuất được 10 chiếc áo. Giá trị của 10 chiếc áo này là 100 đô la. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được 50 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (50 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Sản xuất giày dép: Một công nhân làm việc trong một nhà máy sản xuất giày dép. Mỗi ngày, cô ta sản xuất được 20 đôi giày với tổng giá trị là 200 đô la. Tuy nhiên, cô ta chỉ nhận được 80 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (120 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Sản xuất điện thoại di động: Một công nhân làm việc trong một nhà máy sản xuất điện thoại di động. Mỗi ngày, anh ta sản xuất được 5 chiếc điện thoại với tổng giá trị là 500 đô la. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được 150 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (350 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Sản xuất bàn ghế: Một công nhân làm việc trong một xưởng sản xuất bàn ghế. Mỗi ngày, anh ta sản xuất được 5 bộ bàn ghế với tổng giá trị là 500 đô la. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được 200 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (300 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Sản xuất quần áo: Một công nhân làm việc trong một nhà máy may mặc. Mỗi ngày, cô ta sản xuất được 50 chiếc áo với tổng giá trị là 1000 đô la. Tuy nhiên, cô ta chỉ nhận được 400 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (600 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
- Sản xuất đồ điện tử: Một công nhân làm việc trong một nhà máy sản xuất đồ điện tử. Mỗi ngày, anh ta sản xuất được 10 chiếc máy tính bảng với tổng giá trị là 2000 đô la. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được 600 đô la tiền lương. Phần giá trị còn lại (1400 đô la) là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt.
Hiện nay người sử dụng lao động phải trả lương cho người lao động như thế nào?
Theo Điều 95 Bộ luật Lao động 2019 quy định thì người sử dụng lao động trả lương cho người lao động căn cứ vào tiền lương đã thỏa thuận, năng suất lao động và chất lượng thực hiện công việc.
Tiền lương ghi trong hợp đồng lao động và tiền lương trả cho người lao động bằng tiền Đồng Việt Nam, trường hợp người lao động là người nước ngoài tại Việt Nam thì có thể bằng ngoại tệ.
Mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương cho người lao động, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).
Ngoài ra theo Điều 94 Bộ luật Lao động 2019 quy định th người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.
Người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.
Phạm Đại Phước