Thưa luật sư tôi đang có ý định mua miếng đất 56 m2. Miếng đất này là 1 trong nhiều miếng được phân lô từ miếng đất rộng hơn 2000 m2 có sổ đỏ do ông B đứng tên phân ra để bán. miếng 56 m2 này và miếng 50 m2 khác lúc đầu được ông A mua từ ông B (tổng chung là 106 m2). Lúc ông A mua do chưa đủ diện tích để làm sổ, nhưng gia đình ông B có giấy
Năm 1990 gia đình tôi có mua mảnh đất với diện tích 190 m2 bằng giấy tay để làm đường đi vào nhà (không có xác nhận của UBND xã) và vì làm đường đi vào nhà nên tôi cũng không làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau này nhiều hộ dân đến mua phần đất liền kề với mãnh đất tôi mua để sinh sống và cũng đi trên phần đất của tôi và còn tranh chấp
Vào cuối năm 2015 ông B có bán cho em gái tôi một thửa đất. Đất do cha của ông B đứng tên. Và cha của ông B cũng khẳng định là sẽ cho ông B thừa kế mảnh đất đó và cho phép bán. Vì là chỗ bà con xa quen biết nên em gái tôi chỉ viết giấy tay và nhờ người làm chứng. Trên giấy ghi bên người bán là ông B và không có công chứng của ủy ban. Em tôi đã
Theo quy định tại Điều 43 và Điều 44 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng, tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo
thuộc các lĩnh vực này”. Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung của hộ.
Nếu quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở là
quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp cha mẹ và con có thỏa thuận khác.
3. Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự; người tặng cho tài sản hoặc để lại tài sản thừa kế
mắc là hiện nay căn nhà và thửa đất đang ở của cha tôi hiện tại theo tôi được biết là được thừa kế từ ông nội tôi . Và nếu vậy thì phải chia đều cho 5 đồng thừa kế là 4 đứa con và vợ . Xin phép hỏi các luật sự là thủ tục để xác định tài sản đó là tài sản riêng của cha tôi là như thế nào ? Cần có giấy tờ gì và xác nhận ra sao ! Xin chân thành cảm ơn
Tôi được thừa kế 1 mảnh đất đứng tên cá nhân, tại thời điểm nhận thừa kế vợ tôi có cam kết không hưởng quyền lợi gì từ tài sản này. Hiện tôi đứng ra bảo đảm bằng quyền sử dụng đất cho bạn vay tại ngân hàng thì vợ tôi có phải đứng ra cùng bảo đảm trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất với ngân hàng hay không?
Kính nhờ luật sư tư vấn giùm tôi trường hợp sau: Ông bà Nội tôi đứng tên sở hữu 1 căn nhà chung, được cấp sổ hồng năm 2004 dù bà Nội tôi đã mất năm 2002. Do bà Nội mất không để lại di chúc nên nội dung của TK trước bạ năm 2004 đã xác nhận rõ thừa kế phần di sản 1/2 căn nhà của bà Nội tôi bao gồm: ông Nội và 7 người con; trong 7 người con thì
Gia đình tôi có 6 anh em, được hưởng tài sản chung của cha mẹ để lại là 1 căn nhà, đã được lập thừa kế và đã được lập sổ hồng đứng tên chung 6 anh em, đã hợp pháp là tài sản chung. Tuy nhiên khi có 3 người đề nghị bán để chia tài sản đó ra thì có 3 người không muốn bán, sau khi có người lên tiếng sẽ thưa ra tòa án thì ba người kia đồng ý treo
(Bố tôi đã mất năm 1997) và con gái ở cùng bà và tách riêng QSD đất nhưng có chú không đồng ý cho chia tách nên không tách được sổ (Tiền sử dụng đất Bà tôi vẫn đóng hàng năm). Xin luật sư cho tôi hỏi: 1. Các chú có cơ sở nào để đòi quyền thừa kế trên mảnh đất đó không? 2. Nếu đòi được thì tài sản sẽ được chia như thế nào? 3. Nếu chia tài sản Số đất
luật dân sự về thừa kế theo pháp luật và người còn lại vẫn được hưởng phần di sản của người đã chết nếu không có di chúc định đoạt việc phân chia tài sản. Điều này được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 điều 680: “Điều 680. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác
1. Trong trường
Căn cứ vào điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2000:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận
Tài sản chung của vợ chồng là vật, lợi ích vật chất khác thuộc sở hữu chung của cả vợ và chồng.
Bao gồm: tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung; tài sản riêng của vợ, chồng được thỏa thuận là tài sản chung; quyền sử dụng đất hợp pháp mà vợ chồng có được sau khi kết hôn.
Tài sản tuy mang tên anh rể nhưng nếu phát sinh, tạo lập trong thời gian hôn nhân thì vẫn là tài sản chung của cả hai vợ chồng.
Nay anh rể mất đột ngột ko để lại di chúc thì sẽ chia thừa kế theo pháp luật: 1/2 khối tài sản là của vợ, 1/2 khối tài sản là di sản thừ kế của anh rển chia đều cho các đồng thừa kế của người anh rể (bao gồn vợ, con
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Các bên có thể tự thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn mà không yêu cầu Tòa án xem xét nhưng đối với quyền sử dụng đất thì việc
Theo tôi được biết, “thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”, đến nay đã hết. Hiện nay tòa án nhân dân huyện Đồng Văn thụ lý vụ án dân sự phân chia tài sản chung theo Nghị quyết số 02/2004 của HĐTP TAND tối cao. Vậy xin hỏi: Một là: Đến nay bà Giàng Thị Mỷ không đưa ra được văn bản xác nhận của đồng hàng thừa
bố mẹ tôi nhưng sau khi bố tôi mất thì mẹ tôi có được toàn quyền chuyển nhượng số đất đó cho người khác hay không? Thủ tục để mẹ tôi toàn quyền định đoạt số đất đó thực hiện như thế nào? 2. Bố tôi mất mà không để lại di chúc thì có phải chia theo hàng thừa kế số tài sản mà bố tôi được hưởng hay không?
gì về việc thế chấp trên (Ông Dầu còn nộp tòa 1 đơn yêu cầu trả lại sổ đỏ cho ông Ngô Văn Bảy) nên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Thành Phố Sóc Trăng đã chấp nhận yêu cầu của ông Dầu, tòa án TP Sóc trăng chỉ phán quyết việc ông Dầu phải thanh toán số tiền 365.000.000 đồng cho công ty chúng tôi. Đến nay đã hơn 5 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực, công ty