Luật gia Trần Thị Yến - Công ty Luật TNHH Everest - trả lời:
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) quy định:
“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách
Chào bà!
Phần nợ nần phát sinh trong thời kỳ hôn nhân thì nguyên tắc hai bên phải cùng chịu. Tuy nhiên, nếu đó là phần nợ mà bà hoàn toàn không hay biết, chồng bà tự vay mượn và sử dụng riêng thì Tòa án sẽ xét để chồng bà tự trả bằng phần tài sản được chia riêng cho chồng bà khi ly hôn. Con bà dưới 18 thì bà được quyền yêu cầu cấp dưỡng nếu
chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
Chồng tôi chưa ly hôn với tôi mà có quan hệ với người phụ nữ khác thì tôi có được quyền khởi kiện 2 người không? Nếu tôi có bằng chứng và hình ảnh cô gái kia xúc phạm, đe dọa tôi thì cô gái kia có bị xử phạt không?
số tiền phát sinh trong quá trình hôn nhân của bố mẹ tôi. Hồi đó mẹ tôi hàng ngày đi buôn bán lo cuộc sông cho gia đình ngoài ra còn giành giụm đưa thêm cho bố tôi . Sau đó bố tôi đưa lại cho mẹ tôi 1 ít dùng vào viẹc sửa nhà và mua xe cho con cái. Số tiền còn lại bố tôi dùng để làm ăn và ngày càng sinh lợi nhuận đến giờ. Nhưng kể từ lần đưa tiền
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) quy định:
“Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm
Luật sư cho tôi hỏi một vấn đề về vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Tôi và anh A kết hôn vào năm 2010 đến năm 2011 thì vợ chồng tôi có một đứa con trai. Trải qua thời gian chung sống phát sinh ra nhiều mâu
thời hạn 20 ngày kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố mất tích, tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm chồng chị trên các phương tiện thông tin đại chúng. 15 ngày sau khi hết thời hạn 4 tháng kể từ ngày đăng, phát thông báo, tòa án sẽ mở phiên họp xét đơn của chị. Nếu đủ căn cứ, tòa án sẽ ra quyết định tuyên bố chồng chị mất tích. Sau đó, chị có
ma túy, cần thực hiện theo Nghị quyết 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15-03-2001 của Tòa án nhân dân tối cao và Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24-12-2007 hướng dẫn truy tố xét xử về các tội phạm ma túy có quy định tình tiết định tội, định khung hình phạt cho từng loại tội phạm về ma túy và cách tính hàm lượng của từng chất ma túy.
vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm” hoặc “khi có quyết định đại xá”.
Như vậy, người được miễn TNHS là người có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu TNHS trong những trường hợp nhất định chứ
Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật Hình sự, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối
lớn về tài sản là do việc Phan Thế Thượng đã giao cho Giang và Lẹ không đủ điều kiện để lái tàu đẩy sà lan.
Do đó, hành vi của Phan Thế Thượng đã phạm tội Điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường thủy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 215, Bộ luật Hình sự với mức hình phạt cao nhất
vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm” hoặc “khi có quyết định đại xá”.
Như vậy, người được miễn TNHS là người có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu TNHS trong những trường hợp nhất định chứ
tố bị can, không kết luận điều tra hoặc không lập cáo trạng truy tố người có hành vi phạm tội.
Không truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp biết rõ một người đã có hành vi phạm tội thuộc trường hợp có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình mà
Theo quy định tại khoản 1 Điều 294 thì người phạm tội bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm,là tội phạm ít nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội theo khoản 1 Điều 294, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ
Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là tội phạm không chỉ xâm phạm đến uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng, mà còn xâm phạm đến nguyên tắc xử lý “mọi hành vi phạm tội phải bị phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội là việc cố ý bỏ lọt tội phạm và do đó còn xâm phạm đến lợi ích của
trên, mà còn cả những người có trách nhiệm trong việc phát hiện, bắt giữ tội phạm nhưng đã cố tình bỏ lọt tội phạm, bởi vì nếu không bắt giữ, không khởi tố vụ án thì những người có thẩm quyền sẽ không khởi tố bị can được.
Cũng như đối với chủ thể của tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, không bao gồm thẩm phán hoặc hội thẩm
Khoản 3 của điều luật quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lại rất khác nhau, đó là hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Đây không phải trường hợp duy nhất, mà trong một số tội phạm nhà làm luật cũng quy định hai tình tiết này trong cùng một khung hình phạt