mẹ, hoặc người thân phải nộp cho chúng 1 khoản tiền chuộc.
Phạm tội đối với trẻ em được coi là trường hợp phạm tội nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội đối với người đã thành niên, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ lớp người kế tục xây dựng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mà con bảo vệ
người phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có tính chất chuyên nghiệp và có tổ chức thì người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tình tiết định khung hình phạt ( phạm tội có tổ chức và có tính chất chuyên nghiệp ).
Tuy nhiên, không phải trường hợp phạm tội có tổ chức nào, tất cả những trường hợp phạm tội đều bị coi là có
bị phát hiện.
Người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử cho thấy, người xúi giục trong vụ án bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thường là những người có mâu thuẫn với người thân của người bị bắt cóc, những không có khả năng tổ chức việc
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
Trường hợp phạm tội chưa bắt cóc được người là con tin vì những lý do khác nhau, thì thuộc trường hợp phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ở giai đoạn phạm tội ( chuẩn bị phương tiện, dụng cụ...để bắt cóc nhưng bắt không được
những hành vi khác nhưng hành vi này được quy định là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 của Điều 134 thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm tội. Ví dụ: người bị bắt làm con tin bị trói, bị đánh đập gây tổn hại sức khỏe có tỷ lệ thương tật 35%, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình
định tại khoản 2 Điều 12 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: khoản 1 Điều 134 chỉ có tội phạm nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù.
Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiên hành tố
1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy
Trường hợp phạm tội này tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm e khoản 2 Điều 133 chỉ khác ở chỗ giá trị tài sản bị chiếm đoạt là từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Đây là tài sản có giá trị rất lớn, nên người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 133 có khung hình phạt cao hơn khoản 2 điều này.
Chúng tôi đang sống ở CHLB Đức, khi đọc báo thấy hai từ bị cáo, bị can. Hai người này khác nhau thế nào? Tại sao có người bị tạm giam, người không? Trong phiên tòa Năm Cam, tại sao một số người như Phạm Sĩ Chiến, Trần Mai Hạnh... không mặc áo tù như những người khác?
người bị hại có nhiều tài sản giá trị lên tới 190 triệu đồng.
Tuy nhiên có trường hợp người phạm tội bắt trói người bảo vệ và đột nhập vào kho chứa hành trăm chiếc tivi màu, nhưng chưa lấy được chiếc nào thì bị phát hiện. Nếu căn cứ vào giá trị toàn bộ số tivi có trong kho để xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt thì người phạm tội có thể bị
định từ điểm a đến điểm g khoản 2 Điều 133, người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Khi áp dụng hình phạt theo khoản 2 Điều 133 đối với người phạm tội cần chú ý:
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì:
- Nếu người phạm tội cướp tài sản có nhiều tình tiết định khung hình quy định tại khoản 2 Điều 133, thì hình phạt
Cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự
Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc cướp tài sản là nguồn sống cho chính mình.
Bộ luật hình sự coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và
năm 2005.
Năng lực pháp luật dân sự là khả năng được hưởng quyền lợi và gánh vác những nghĩa vụ dân sự nhất định (Điều 14 Bộ luật dân sự năm 2005). Năng lực pháp luật dân sự có từ khi người đố sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực pháp luật dân sự không bị giứoi hạn bởi tuổi tác, sức khỏe hay bất kỳ một điều kiện nào khác ngoại trừ những