Trách nhiệm của cơ sở kinh doanh dịch vụ trong phòng, chống tệ nạn mại dâm

Vào lúc 21h ngày 27/3/2006, lực lượng thanh tra phòng, chống tệ nạn mại dâm của xã X, huyện Y, tỉnh H đã phát hiện một đôi trai gái đang có hành vi giao cấu tại góc vườn của một quán cafe vườn thuộc địa bàn xã X, do ông Trần Văn L làm chủ. Đôi trai gái đã khai nhận như sau: người con trai tên là Lý Tiểu N, 25 tuổi (quốc tịch Trung Quốc) là nhân viên của một doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên địa bàn tỉnh H; còn nguời con gái là Vi Thị H, 19 tuổi, hiện làm nhân viên bán hàng của quán cafe vườn nói trên. Lý Tiểu N khai: khi Vi Thị H mang cafe tới, N đã chủ động đưa cho H 500.000 đồng và đề nghị được quan hệ tình dục với H. Vi Thị H đã đồng ý, sau đó đưa N đến một góc vắng trong quán cafe vườn. Ông Trần Văn L khi đó đang bận pha cafe cho khách mới đến nên hoàn toàn không biết sự việc nói trên. Kiểm tra cho thấy ông Trần Văn L đã ký hợp đồng lao động với Vi Thị H và ký cam kết chấp hành quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm. UBND xã X cần xử lý trường hợp trên như thế nào?

Đây là tình huống xác định trách nhiệm của các cơ sở kinh doanh dịch vụ trong phòng, chống mại dâm. Để giải quyết tình huống trên đúng pháp luật, cần vận dụng các quy định về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong phòng, chống mại dâm được quy định trong Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003.

Xác định trách nhiệm của ông Trần Văn L trong vụ việc mại dâm nêu trên

- Khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 quy định: “Người đứng đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý thì bị xử phạt hành chính; trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.

- Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm quy định: “Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với người đứng đầu cơ sở kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.

- Trong vụ việc này, ông Trần Văn L là chủ quán cafe vườn, đã thực hiện việc ký kết hợp đồng lao động với Vi Thị H và ký cam kết với UBND xã về việc chấp hành quy định của pháp luật về phòng, chống mại dâm. Khi sự việc mua, bán dâm xảy ra tại góc vắng trong quán cafe vườn, ông Trần Văn L không hay biết gì nên không phải là người chủ ý tổ chức hoạt động mại dâm hoặc chứa mại dâm, nhưng đây là hành vi thiếu trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý.

Đối chiếu với các quy định nêu trên đây, thì hành vi vi phạm của ông Trần Văn L sẽ bị xử phạt hành chính với mức tiền phạt từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.

Xác định hành vi vi phạm và mức độ xử lý đối với Vi Thị H và Lý Tiểu N

- Đối với Vi Thị H: đã nhận 500.000 đồng của Lý Tiểu N để thực hiện hành vi giao cấu. Căn cứ khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 (“Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác”), Vi Thị H đã vi phạm vào khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003. Theo khoản 1 Điều 18 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP: “Người nào có hành vi bán dâm thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng”.

- Đối với Lý Tiểu N: đã đưa cho Vi Thị H 500.000 đồng để được giao cấu. Theo khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003 (“Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu”), Lý Tiểu N đã vi phạm vào khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh Phòng, chống mại dâm năm 2003. Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP quy định: “Người nào có hành vi mua dâm thì bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng”.

Lý Tiểu N là người nước ngoài (Trung Quốc), nhưng không được hưởng đặc quyền ngoại giao (miễn trừ tư pháp). Theo Điều 2 Nghị định số 178/2004/NĐ-CP thì “... cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mại dâm thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống mại dâm và các quy định pháp luật khác có liên quan. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”.

Thẩm quyền xử lý vụ việc nêu trên

Do Lý Tiểu N là người nước ngoài nên từ những phân tích trên ta thấy thẩm quyền giải quyết vụ việc nêu trên là UBND tỉnh H (Sở Ngoại vụ). Chủ tịch UBND xã X có trách nhiệm chỉ đạo tiến hành việc lập biên bản và chuyển giao biên bản cùng các tài liệu có liên quan, tang vật, phương tiện vi phạm (nếu có) đến UBND tỉnh H.

Các bước mà Chủ tịch UBND xã X cần tiến hành trong thẩm quyền của mình

- Chỉ đạo lực lượng thanh tra tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Trần Văn L về hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm để hoạt động mại dâm xảy ra ở cơ sở do mình quản lý; biên bản đối với Vi Thị H và Lý Tiểu N về hành vi mua, bán dâm;

- Chuyển giao biên bản cùng các tài liệu có liên quan đếUBND tỉnh H để Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết.

 

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào