Căn cứ để xác định nạn nhân của tội mua bán người

Trên thực tế thì hiện nay ở nước ta vẫn còn tồn tại việc mua bán người, cụ thể là ở các vùng lạc hậu, giáp biên giới. Vậy, Ban biên tập cho tôi hỏi: Dựa vào những căn cứ gì để xác định một người là nạn nhân của tội mua bán người? Mong sớm nhận được sự phản hồi. Xin cảm ơn!

Tại Điều 5 Nghị định 62/2012/NĐ-CP quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ do Thủ tướng Chính phủ ban hành có quy định về căn cứ để xác định nạn nhân của tội buôn bán người như sau:

Một người được xác định là nạn nhân khi họ là đối tượng của một trong những hành vi sau đây:

+ Mua bán người: Coi người như một loại hàng hóa để trao đổi bằng tiền hoặc lợi ích vật chất khác;

+ Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để:

++ Ép buộc bán dâm;

++ Ép buộc làm đối tượng sản xuất băng, đĩa hình, sách, tranh, ảnh, lịch và những hình thức khác có nội dung tuyên truyền lối sống đồi trụy, khiêu dâm;

++ Ép buộc biểu diễn cho người khác xem thân thể mình với mục đích kích động tình dục;

++ Làm nô lệ tình dục;

++ Cưỡng bức lao động;

++ Lấy các bộ phận cơ thể một cách bất hợp pháp;

++ Ép buộc đi ăn xin;

++ Ép buộc làm vợ hoặc chồng;

++ Ép buộc đẻ con trái ý muốn của họ;

++ Ép buộc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

++ Vì mục đích vô nhân đạo khác.

+ Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để thực hiện các hành vi ép buộc bán dâm; ép buộc làm đối tượng sản xuất băng, đĩa hình, sách, tranh, ảnh, lịch và những hình thức khác có nội dung tuyên truyền lối sống đồi trụy, khiêu dâm hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

- Việc xác định nạn nhân phải dựa vào các nguồn tài liệu, chứng cứ sau:

+ Tài liệu, chứng cứ do cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp;

+ Thông tin, tài liệu do cơ quan giải cứu nạn nhân cung cấp;

+ Thông tin, tài liệu do Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cung cấp;

+ Tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài cung cấp;

+ Lời khai, tài liệu do nạn nhân cung cấp;

+ Lời khai, tài liệu do người thực hiện hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này cung cấp;

+ Lời khai, tài liệu do những người biết sự việc cung cấp;

+ Các thông tin, tài liệu hợp pháp khác.

- Trường hợp cơ quan chức năng không chứng minh được một người có phải là nạn nhân hay không, sau khi xác minh lý lịch, thời gian vắng mặt khỏi địa phương nơi họ cư trú, lý do vắng mặt phù hợp với lời khai của họ về việc là đối tượng của một trong những hành vi nêu trên thì xem xét các căn cứ sau để xác nhận họ là nạn nhân:

+ Người đó được phát hiện, giải cứu cùng với nạn nhân khác;

+ Người đó đã có thời gian chung sống cùng với nạn nhân tại nơi các đối tượng thực hiện hành vi nêu trên giam giữ, quản lý và bị đối xử như những nạn nhân này;

+ Biểu hiện về thể chất và tinh thần: Có dấu hiệu bị bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, bị đối xử tàn tệ, bị thương tích, sợ hãi, hoảng loạn, trầm cảm, ốm yếu;

+ Thời gian người đó rời khỏi địa phương nơi cư trú thì thân nhân của họ trình báo cơ quan chức năng về việc họ bị mất tích hoặc là đối tượng của một trong những hành vi như trên;

+ Những thông tin hợp pháp khác giúp có cơ sở để tin rằng người đó là nạn nhân.

Trên đây là nội dung trả lời về căn cứ để xác định nạn nhân của tội mua bán người.

Trân trọng!

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Tội xâm phạm tính mạng sức khỏe

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào