Thu hồi đất ở chợ thì có được đền bù không

Năm 1989 tôi có mua một lô đất của UBND thị trấn với giá 03 chỉ vàng, diện tích 13,5 m2 tại chợ của thị trấn để làm kiốt kinh doanh. Tôi đã được UBND thị trấn cấp giấy cấp mặt bằng kinh doanh số 65/GP.UB ngày 18/10/1989 và 01 biên bản giao nhận đất xây dựng ki ốt. Lúc trước UBND thị trấn có yêu cầu tôi nộp 15 triệu để làm sổ đỏ nhưng lúc đó tôi cho rằng đã có giấy cấp mặt bằng kinh doanh của UBND thị trấn thì không cần làm thủ tục cấp sổ đỏ nữa. Đến nay UBND thị trấn thông báo sẽ thu hồi lại diện tích đất của tôi để làm lại chợ mới, tôi có hỏi về việc đền bù lô đất trên thì được trả lời là UBND thị trấn sẽ không bồi thường đất hoặc tiền cho tôi mà chỉ hỗ trợ cho tôi mỗi mét vuông đất là 10.000 đồng (mười ngàn đồng). Vậy luật sư cho tôi hỏi việc thu hồi đất đã mua của tôi mà không bồi thường lô đất khác ở khu chợ mới và cũng không bối thường tiền cho tôi là đúng hay sai? Tất cả giấy tờ còn lại của việc mua đất là giấy cấp mặt bằng và biên bản giao đất (trong biên bản bàn giao đất và giấy cấp mặt bằng chỉ nói là giao đất cho tôi làm mặt bằng kinh doanh, ngoài ra không còn nội dung nào khác). Rất mong nhận được câu trả lời sớm của luật sư. Xin chân thành cảm ơn

Chào bạn!

Theo Điều 44 Nghị định 84/2007/ND9CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 về "Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

1. Trường hợp thu hồi đối với đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai và được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận đất đó không có tranh chấp thì việc bồi thường, hỗ trợ về đất thực hiện theo quy định sau:

a) Trường hợp đất đang sử dụng là đất có nhà ở và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất ở theo quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở và phần diện tích đất vườn, ao trên cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được công nhận là đất ở (nếu có) thì được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư;

b) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (không phải đất ở) và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng. Trường hợp trên thửa đất có cả phần diện tích đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì phần diện tích đó được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp;

c) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp mà người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường, hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP;

d) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này hoặc diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì người sử dụng đất không được bồi thường về đất; nếu đất đang sử dụng là đất có nhà ở mà người có đất bị thu hồi không có chỗ ở nào khác thì được hỗ trợ về đất hoặc được giải quyết nhà tái định cư theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh."

Như vậy, trường hợp của bạn vẫn thuộc diện được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Bạn cần liên hệ với chính quyền địa phương để hỏi lý do vì sao thu hồi đất mà không bồi thường, hỗ trợ. Đề nghị được trả lời bằng văn bản để có cơ sở khiếu nại, khởi kiện hành chính sau này (nếu có).

Đi đến trang Tìm kiếm nội dung Tư vấn pháp luật - Bồi thường khi thu hồi đất

Thư Viện Pháp Luật

lượt xem
Thông báo
Bạn không có thông báo nào